#1
|
|||
|
|||
![]() Du lịch cửa lò những ngày trời yên biển lặng thì tàu ra khơi phản hồi bao giờ tôm cá cũng đầy ắp khoang. Cá nhiều thì vợ chồng , con cái ai cũng bận rộn , nào là đem ra chợ bán , thứ thì luộc để phơi , thứ thì nướng để nhập về các chợ Đô Lương , Thanh Chương , Anh Sơn… chúng tôi vào nhà ngư gia Mai Văn Hải. Tiếp chúng tôi trong căn nhà nhỏ bé , chị Nguyễn Thị Bảy , vợ anh Hải bấy giờ đang dở tay đan nốt tấm lưới kịp cho chồng đi biển chiều nay. Câu chuyện của chị Bảy cũng là câu chuyện của bao nhiêu người đàn bà làng biển Nghi Thuỷ này… Bao đời nay , dẫu khó nhọc , nhưng ngư gia nơi đầy vẫn gắn bó với biển. Quần chúng ở đây đều biết khi trong nhà không còn hạt gạo , đồng tiền , thì chính biển bao dung cho họ cuộc sống. Biển chưa từ chối ai mưu sinh bao giờ. Vì thế , những ngư gia làng chài lớn lên đều biết bám biển để mà sinh tồn , tất thảy đều phụ thuộc vào con cá , đều chờ đợi từ phía biển. Không chỉ vợ chờ chồng , con chờ cha , mà bà con , làng xóm , người làng xóm , người bán cá… đều chờ. Tất cả đều chờ con cá từ biển về thì mới “lên” được. “ Đang mùa được cá thì phải gấp rút tranh thủ ra khơi để chớp dịp , chứ ngày biển động thì vợ chồng , con cái mới quây quần ở nhà thôi” , anh Hải nối. Đội tàu của anh cứ đi 5 ngày thì lại về một lần , mỗi lần cũng được 2-3 tấn cá. Trừ chi phí lãi khoảng 3-5 triệu đồng một chuyến. Mỗi lần ra khơi , bằng hữu dong thuyền chạy một mạch ra đến Vịnh Bắc Bộ để thả dã kéo cá. Giữa biển trời mênh mông , cả đoàn kéo cá lên , phân loại cá , đập đá , ướp cá , quay máy , lại thả dã , kéo cho mỏi nhừ cả tay… Cứ thế liền tay cho đến khi tàu đầy cá mới về. Khách sạn cửa lò bấy giờ đã quá trưa , tiếng gọi nhau ơi ới của những người mẹ , người vợ , của những ngư gia làng chài hẹn nhau đi biển râm ran. Dưới chân của họ nhộn nhịp đi về phía bến. Họ đem theo những thứ nhu yếu cho chuyến ra khơi , bắt đầu một chuyến đánh bồi thường ngày như bao đời nay. Tại cái nơi trên bến dưới thuyền ấy chúng tôi đã được chứng kiến những đoàn thuyền tong tả nối đuôi nhau ra khơi. Tàu đi rồi , âu lo đằm sâu trong người ở lại. Chúng tôi nhận ra bộ đó khi nhìn vào ánh mắt của người vợ , người mẹ dõi theo chồng , theo con. Chừng ấy tháng năm qua , những người đàn bà “lấy chồng nghề biển” nơi đây đều đứng trên bến cá , mắt dõi khơi xa tìm bóng những con thuyền mang theo người đàn ông họ thương yêu nhất. Tặng đến khi dáng người chồng chỉ còn là chấm nhỏ giữa biển khơi , họ mới quay lưng phản hồi nhà. Thế mới biết , cuộc sống của họ , không phức tạp , chất phác , sâu sắc và cũng tràn ngập tình làng nghĩa xóm. Lúc này khoảng hai đến ba giờ chiều , cách đó không xa là bến lạch cạn , nơi dành cho những ngư gia thuyền nhỏ đi lộng trong ngày , sáng đi chiều về. Dễ thường cũng đến vài chục con tàu đang tong tả tìm lối vào bến. Cá được tong tả đưa lên bờ. Nào mực , nào tôm , cá nục , cá xóc…. Tất cả tươi rói quẫy trong niềm vui hân hoan được mùa biển. Giờ đây chúng tôi đã hiểu được tại sao nghề biển lại thu hút bao nhiêu đời người , mặn mòi gắn bó với những âm thanh lao xao , hương vị tanh nồng từ biển. Biển cho ngư gia làng chài Nghi Thuỷ cuộc sống no đủ nhưng cũng luôn thử thách họ bằng những nguy hiểm rình rập trong những chuyến ra khơi. Xiết bao giọt nước mắt vỡ oà đã rơi trong niềm vui khi gặp lại người thân và cả trong nỗi đớn đau khi người chồng , người cha , người nhà của họ trọn đời ngoài đại dương. Ở làng chài nhỏ bé này đã có nhiều gia đình mất đi hai đến ba người vì đi biển. Xiết bao bãi cát đã hằn lên vết tay cào xé của người đi khơi xa vĩnh viễn không về? Và có biết bao nhiêu người đàn bà của xóm chài này đã từng ngồi hoá đá trước biển khơi trong nỗi đau vô cùng của ngày biển động. Nhưng qua thương đau họ vẫn niềm tin biển bỉ vào cuộc sống. Những cơn bão biển , hay bão giông thế cuộc chẳng thể nào đánh gục được những con người lời nói rắn rỏi , vững vàng ấy , chính họ đã làm nên diện mạo của một Nghi Thủy phát triển hôm nay. Thế nhưng , chúng tôi không muốn gọi Nghi Thủy là một quê biển , hay làng biển , làng chài nữa. Bởi bây chừ nó như một đứa con hoang dại tự bao giờ đã lớn lên , trưởng thành. Ở đây , đã có sự phồn vinh , năng động của một thành phố biển đang được định ảnh ngày càng rõ nét. Hôm nay đã có những ngư gia giỏi dang , dám nghĩ , dám làm. Những con tàu công suất lớn được thay dần những con thuyền nhỏ. Từ những con cá bắt được của cái nghề truyền thống ông cha để lại , họ đã mang lại cuộc sống no đủ , có của ăn của để cho nhiều nghề khác. Trong cuộc chuyện trò với chúng tôi , ông Dương Ngọc Xô , chú tâm UBND phường Nghi Thủy , Cửa Lò cho biết: Trước kia , Nghi Thủy cũng nghèo , như bao làng chài ở mảnh đất miền Trung nắng gió khác. Tặng đến thời kỳ lúa ra đòng cải cách , xóa bỏ bao cấp , hiệp tác xã tập kết , thì Nghi Thủy trong buổi đầu bước ra nền kinh tế thị trường lại bỡ ngỡ , bước đi dò dẫm. Người dân phản hồi vẫn làm nghề truyền thống đi vây mực , vây cá , vây moi… manh mún nhỏ lẻ , mạnh ai nấy làm. Và nếu cứ nối như thế , thì ngàn năm Nghi Thủy vẫn mãi là một làng chài lắt mắt , cuộc sống ngư gia cập kênh theo con sóng. Tuy nhiên , Nghi Thủy cũng chẳng thể bỏ nghề cá , chẳng thể bỏ biển , mà đó vẫn , đang và sẽ là nghề trọng tâm , là thế mạnh lớn nhất. Chỉ có từ nghề cá mới làm động lực để phát triển được nghề khác , như một đầu máy kéo theo các toa tàu còn lại. Biển được là được tất thảy , mất nghề biển là mất tất thảy. Ví như vậy , phải bỏ dần cách làm ăn nhỏ lẻ , cập kênh , phập phù… truyền thống , phải vươn khơi , phải đánh bắt xa bờ. Từ nghề cá , mà phát triển ra các nghề lao vụ - thương mai du lịch. Một người đi biển , sẽ kéo theo nhiều người cần lao khác: buôn bán , chế biến thực phẩm , lao vụ du lịch… Cho đến bây chừ , Nghi Thủy vẫn không là nơi phát triển du lịch trọng tâm của Cửa Lò , hầu như không có nhà hàng , khách sạn… Nhưng nơi đây có 2 chợ thuỷ sản lớn nhất của Cửa Lò , và hàng trăm đại lý bán thuỷ sản khác. Hiện tại , Nghi Thủy có khoảng 170 tàu thuyền , trong đó khoảng 39 tàu lớn , từ 300 – 500 sức ngựa. Sản lượng 6 tháng đầu năm 2014 là 5000 tấn , đạt 88% kế hoạch đề ra trong năm. ngày nay , quốc gia có chính sách tương trợ vốn cho ngư gia đóng tàu lớn ra khơi. Trong thời kì tới , Nghi Thủy dự tính sẽ làm thí điểm 3 tàu vỏ sắt công suất lớn , ông Xô cho biết Dân Nghi Thủy năng động , nhạy bén , đó là lợi thế và động lực rất lớn cho mảnh đất ngày càng phát triển đi lên. “Nhìn các nơi khác , họ cũng có biển , cũng có tài nguyên như thế , tại sao họ làm được mà mình không làm được? vấn đề ở đây là phải đầu tư. Có tàu lớn , nhưng đội ngũ cần lao cũng phải được nâng cao , ngư gia không chỉ cần kinh nghiệm sóng nước của ông cha để lại , mà cần có kỹ thuật mới. Chúng tôi đang mở lớp đào tạo thuyển trưởng , thuyền máy , thuyền viên… Đưa học viên đi tham quan học tập các mô hình khác ở Quỳnh Lưu , Diễn Châu; đào tạo quản lý xa bờ. Có như thế chúng tôi mới vững vàng ra khơi , đảm bảo an toàn , sản lượng đánh bắt cũng như chất lượng sản phẩm” , ông Dương Ngọc Xô chia sẻ. Bên cạnh đó , Nghi Thủy cũng đang coi trọng nâng cấp tu sửa , mở mang cảng cá để tiện lợi cho tàu neo đậu khi cập cảng tải hàng , tránh trú bão. Quy hoạch chợ thuỷ sản , quản lý du lịch đảo Lan Châu , đảo Song Ngư. Trong lộ trình du lịch về với Cửa Lò , có làng cổ Mai Bảng , Nghi Thủy đặc thù cho làng biển truyền thống , có thêm điểm đến là chợ thuỷ sản nhộn nhịp bữa nay , để du khách thăm quan , và mua bán. Với cá , tôm , cua , mực… đang tươi rói; các thực phẩm nước mắm , ruốc chua , ruốc mặn gia truyền có màu đỏ au được làm rất kỳ công phu từ vật liệu gạo hoặc ngô xay nhỏ , ớt tươi chạt nhỏ , mật mía , muối và con tép biển. Cái làng chài ven Cửa Lò hoang vu ngày ấy , chỉ mới hơn hai chục năm trôi qua , đã vươn vai đứng dậy như Phù Đổng , để tạo nên vị thế mới cho mình. Ở đây , ngoài vẻ đẹp của một lãnh hải mặn mòi sóng gió , Nghi Thuỷ như một viên ngọc thiên nhiên đầy sức hút giữa biển xanh mà từ cổ xưa , vua Bảo Đại đã từng đến vùng đất này và dừng lại chọn làm nơi nghỉ dưỡng. |
CHUYÊN MỤC ĐƯỢC TÀI TRỢ BỞI |
![]() |
Công cụ bài viết | |
Kiểu hiển thị | |
|
|